Theo giới chuyên gia y tế, thời tiết thay đổi lạnh đột ngột làm cho các mạch m.áu co lại, dẫn tới tăng huyết áp, gây xuất huyết não. Nhiều người trời lạnh thường ít vận động, dẫn tới tăng cân cũng là yếu tố làm tăng huyết áp và nguy cơ đột quỵ.
Cần cảnh giác với chứng đột quỵ ở người già.
Thường khi trời trở lạnh, số bệnh nhân nhập viện do biến chứng cao huyết áp tăng rõ rệt. Một nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy, có gần 70% người bệnh không biết mình bị cao huyết áp cho đến khi đột ngột bị tai biến mạch m.áu não, liệt, hôn mê.
Đại tá, PGS.TS Nguyễn Hoàng Ngọc, Phó Giám đốc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 cho biết, tăng huyết áp có thể gây ra các hậu quả nghiêm trọng như đột quỵ, nhồi m.áu cơ tim. Trời rét sẽ làm co mạch khiến huyết áp tăng vọt, dễ gây ra tai biến. Nhất là với người già, khi ra khỏi chăn ấm là lúc dễ bị nhiễm lạnh, sau đó đi vệ sinh lại thêm một lần mất nhiệt, cơ thể lạnh hơn nữa khiến cho mạch co, huyết áp tăng đột ngột. Tình trạng này dễ dàng dẫn đến các biến cố như vỡ mạch m.áu não, đau thắt ngực.
Theo Hội Phòng chống tai biến mạch m.áu não, tại Việt Nam, đột quỵ đứng thứ ba về nguyên nhân gây t.ử v.ong sau bệnh lý tim mạch, ung thư và dẫn đầu trong các nguyên nhân gây nên tàn tật.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) ghi nhận, đột quỵ là nguyên nhân gây t.ử v.ong đứng hàng thứ 2 trên thế giới, với con số khoảng 6,5 triệu người t.ử v.ong mỗi năm; tức trung bình mỗi 6 giây có một ca t.ử v.ong do đột quỵ. Đột quỵ còn là nguyên nhân gây tàn phế hàng đầu trên thế giới, có hơn 17 triệu ca bệnh mỗi năm. Trung bình 6 người có một người bị đột quỵ, nếu như không có biện pháp phòng tránh kịp thời.
Vấn đề quan trọng nhất trong cấp cứu đột quỵ là vấn đề thời gian, phải nhanh chóng đưa bệnh nhân tới bệnh viện càng sớm càng tốt để tận dụng thời gian vàng (3 giờ đầu) của não.
TS.BS Nguyễn Bá Thắng, Trưởng Trung tâm Khoa học thần kinh, Trưởng khoa Thần kinh, Trưởng Đơn vị đột quỵ Bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM chia sẻ, đột quỵ là quá trình xảy ra đột ngột, chỉ có một tỷ lệ nhỏ người bệnh có thể phục hồi hoàn toàn, còn lại đa phần bệnh nhân đều có những di chứng do tổn thương não, bệnh lý mạch m.áu như: liệt tay, liệt chân, rối loạn cảm giác, nói khó, vận động khó, giảm trí nhớ… Những di chứng này ảnh hưởng hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt, cuộc sống của bệnh nhân.
Thống kê từ Bộ Y tế, trong các trường hợp bệnh nhân sống sót sau đột quỵ thì khả năng tàn phế, lệ thuộc cao. 10-13% bệnh nhân tàn phế, nằm liệt giường; 12% hồi phục một phần; 25% bệnh nhân có thể độc lập đi lại.
Hiện nay, công tác hỗ trợ điều trị phục hồi chức năng cho người bệnh đột quỵ trong cả nước nói chung đang gặp phải nhiều khó khăn do chưa có nhiều cơ sở phục hồi chức năng, áp lực quá tải bệnh viện khiến thời gian được tập luyện của người bệnh bị hạn chế. Sau khi điều trị giai đoạn cấp, bệnh nhân được xuất viện. Hầu hết người bệnh phải tự bươn chải nhờ người thân giúp đỡ tập luyện, tự tập không đúng phương pháp, thậm chí không tập luyện gây ảnh hưởng đến quá trình phục hồi của bệnh nhân, như: hồi phục chậm hoặc gặp phải các di chứng khác do tập luyện sai cách gồm cứng cơ, co rút cơ, mất chức năng, không thể hoà nhập lại cuộc sống.
Đột quỵ thường đến như một cú sốc, đột ngột và không lường trước được. Đột quỵ có thể thay đổi cuộc sống của bạn một cách tiêu cực. Đột quỵ có thể tấn công sức khỏe của bạn một cách ngẫu nhiên và đôi khi không có dấu hiệu báo trước nào.
Khi phát hiện người có các dấu hiệu đột quỵ, cần xử trí bằng cách: Đỡ người bệnh để không bị té ngã gây chấn thương; Để người bệnh nằm xuống chỗ thoáng, nghiêng qua một bên nếu nôn ói. Móc hết đàm, nhớt để bệnh nhân dễ thở; Gọi xe đưa người bệnh đến cơ sở y tế gần nhất; Không tự ý cho uống hoặc nhỏ thuốc hạ huyết áp hay bất kỳ loại thuốc nào khác; Đưa người bệnh vào bệnh viện càng nhanh càng tốt, để có thể cứu sống kịp thời các phần não chưa c.hết nhưng đang bị thiếu m.áu nuôi, đang bị sặc, bị chèn ép.
Đại tá, PGS.TS Nguyễn Hoàng Ngọc cho biết, đột quỵ có thể phòng ngừa được nếu vận động cơ thể và tập thể dục thường xuyên; giữ chế độ ăn uống đúng mức để tránh béo phì; hạn chế rượu, bia; tránh hút t.huốc l.á.
Trong mùa đông, để phòng tránh đột quỵ (nhất là ở người già), không nên ra lạnh đột ngột. Buổi sáng, khi tỉnh giấc, không nên ra khỏi chăn và xuống giường ngay mà cần nằm lại trên giường, vận động nhẹ nhàng từ 3 -5 phút để cơ thể dần thích nghi. Cần điều trị tốt bệnh tăng huyết áp, phòng và điều trị tiểu đường, khắc phục tình trạng tăng cholesterol.
Có nên uống Aspirin mỗi ngày để ngăn ngừa đột quỵ hay bệnh tim?
Theo PGS. TS. Trần Huỳnh (Huynh Wynn Tran), không phải ai cũng nên uống Aspirin và chỉ có những người đang có bệnh tim mạch hay rủi ro cao về bệnh tim mạch mới nên uống. Uống Aspirin bừa bãi có thể tăng rủi ro xuất huyết bao tử và trong não (ít hơn).
Mới đây, trên trang cá nhân của mình, PGS. TS. Trần Huỳnh (Huynh Wynn Tran) tại ĐH Y khoa California Northstate University, Sacramento, California, Hoa Kỳ đã đưa ra lời cảnh báo về việc sử dụng thuốc baby Aspirin (81mg) mỗi ngày để ngăn ngừa đột quỵ hay bệnh tim.
Cụ thể, trong bài viết này, BS. Trần Huỳnh giải thích rõ về loại thuốc này, cũng như 2 căn bệnh đột quỵ và nhồi m.áu cơ tim, đồng thời đưa ra dẫn chứng về khuyến cáo của các Hiệp hội chuyên khoa liên quan nhằm giúp mọi người có một cái nhìn tổng thể để hiểu rõ hơn về thói quen này.
PGS. TS. Trần Huỳnh (Huynh Wynn Tran) tại ĐH Y khoa California Northstate University, Sacramento, California, Hoa Kỳ đưa ra khuyến cáo về việc sử dụng thuốc baby Aspirin (81mg) mỗi ngày để ngăn ngừa đột quỵ hay bệnh tim.
Thuốc Baby Aspirin 81mg là gì?
– Thuốc Aspirin là thuốc kháng viêm không phải Steroid (NSAID), là loại thuốc giảm đau hay dùng cho các trường hợp đau nhức nhẹ. Baby Aspirin là loại liều nhỏ, 81mg, so với loại Aspirin thông thường là 325mg. Hiện nay đa số thuốc Aspirin tại Mỹ là loại baby 81mg. Thuốc Aspirin ức chế lên chuỗi Prostaglandin, là chuỗi dây chuyền của đau nhức và viêm sưng, làm bệnh nhân bớt đau nhức. Tuy nhiên, ức chế Prostaglandin cũng mỏng đi màng bảo vệ bao tử, làm tăng rủi ro xuất huyết bao tử.
– Thuốc aspirin làm giảm khả năng m.áu đông lại, vì vậy giảm rủi ro các cục m.áu đông tụ lại, dễ gây ra đột quỵ hay nhồi m.áu cơ tim. Đối với những bệnh nhân đã từng bị đột quỵ hay mắc bệnh tim thì Aspirin rõ ràng giúp giảm rủi ro tái phát đột quỵ hay nhồi m.áu cơ tim, từ 17% dùng Aspirin cho đến 80% nếu kết hợp các thuốc khác.
– Tạp chí Annals of Medicine ước tính gần 1/4 dân số Mỹ uống Aspirin mỗi ngày không cần thiết (khoảng 23%). Phần lớn số bệnh nhân này uống thuốc Aspirin tự ý mà không hỏi ý kiến BS. Số bệnh nhân này sẽ tăng rủi ro mắc bệnh xuất huyết khi dùng Aspirin hằng ngày.
Đột quỵ và nhồi m.áu cơ tim là gì?
– Đột quỵ là do một vùng não bị mất oxygen do mạch m.áu bị ngưng tuần hoàn. Có 2 loại đột quỵ chính là đột quỵ do nghẽn mạch m.áu (ischemic stroke), chiếm phần lớn (85-90%) và đột quỵ do vỡ mạch m.áu (hemorrhagic stroke), chiếm ít hơn (dưới 10%). Loại đột quỵ khác là TIA (cơn thiếu m.áu thoáng qua) cũng có thể coi là một dạng đột quỵ cho nghẽn mạch m.áu, nhưng cục m.áu đông sau đấy lọt qua được khe hẹp và dòng m.áu lưu thông trở lại (nên gọi là cơn thiếu m.áu thoáng qua).
– Nhồi m.áu cơ tim (heart attack) là một vùng tim bị mất oxygen do mạch m.áu cung cấp cho tim bị ngưng. Đa số nhồi m.áu cơ tim là do nghẽn động mạch vành.
Thuốc aspirin làm giảm khả năng m.áu đông lại, vì vậy giảm rủi ro các cục m.áu đông tụ lại, dễ gây ra đột quỵ hay nhồi m.áu cơ tim. (Ảnh: Internet)
Các hiệp hội chuyên khoa khuyến cáo gì?
– Hội Tim Mạch Hoa Kỳ (American Heart Association) và Hội BS chuyên khoa tim mạch (American College of Cardiology) chính thức đề xuất chống lại việc uống baby Aspirin 81mg với người trên 70 t.uổi mà không có bệnh tim và không có đột quỵ trước đây, hoặc bệnh nhân ở bất kỳ t.uổi nào mà có rủi ro xuất huyết bao tử (như bị bệnh loét bao tử hoặc bệnh trào ngược bao tử GERD).
– Các khuyến cáo này dựa trên 3 nghiên cứu chính. 2 trong số 3 nghiên cứu này chỉ ra không có lợi ích trong việc uống thuốc Aspirin mỗi ngày để ngăn ngừa đột quỵ hay bệnh tim. Thay vào đó, dùng Aspirin mỗi ngày tăng rủi ro ra m.áu, có thể cao đến mức phải nhập viện và truyền m.áu do thiếu m.áu.
– Với người bị bệnh tiểu đường nhưng không có bệnh tim mạch thì uống Aspirin vừa co lợi vừa có hại. Lợi là giảm khoảng 1% rủi ro bị nhồi m.áu cơ tim và hại là 1% rủi ro tăng khả năng ra m.áu.
Song, rõ ràng Aspirin hiệu quả với người đã có bệnh tim mạch và không có ích với người không có bệnh tim mạch. Tuy nhiên, với những bệnh nhân có thể phát bệnh tim mạch sau này như thuộc nhóm rủi ro cao dưới đây thì các bác sĩ có thể tính rủi ro tim mạch theo phần trăm dựa vào các chỉ số trên tại http://www.cvriskcalculator.com/.
Thông thường, khi rủi ro mắc bệnh tim mạch và đột quỵ trên 10% thì BS có thể sẽ cho bệnh nhân uống Baby Aspirin 81mg mỗi ngày vì lúc đó rủi ro t.ử v.ong do đột quỵ hoặc nhồi m.áu cơ tim cao hơn ra m.áu.
Theo BS. Trần Huỳnh, dưới đây là nhóm rủi ro cao có thể phát bệnh tim mạch:
Nam giới
Cao t.uổi (trên 50)
Người Mỹ gốc Phi
Có bệnh tiểu đường
Cao huyết áp
Hút thuốc
Cao mỡ mức độ cao
BS. Trần Huỳnh nhấn mạnh, Aspirin không giúp chữa trị đột quỵ mà gọi 911 mới là cách tốt nhất để chữa. (Ảnh: Internet)
Có nên uống Aspirin 81 trong lúc nghi ngờ bệnh nhân bị đột quỵ?
– Không.
Theo khuyến cáo của Hiệp hội tim mạch hoa kỳ AHA, trong trường hợp nghi ngờ bệnh nhân bị đột quỵ, bạn nên gọi 911 hay cấp cứu ngay lập tức chứ không nên tự ý cho bệnh nhân uống Aspirin. Sau khi gọi 911, chuyên viên có thể sẽ khuyên quý vị nên cho bệnh nhân uống Aspirin.
Lưu ý là Aspirin không giúp chữa trị đột quỵ mà gọi 911 mới là cách tốt nhất để chữa.
Khi nghi ngờ ai đó bị đột quỵ, hãy nhớ “FAST”
– Face drooping: méo mặt
– Arm weakness: yếu tay chân
– Speech: khó nói chuyện
– Time to call 911: hãy gọi 911 ngay lập tức.
Theo đó, BS. Trần Huỳnh đặc biệt nhấn mạnh, mọi người không nên tự ý uống Aspirin mỗi ngày. Thay vào đó, người bệnh nên gặp BS để xác định xem mình có bị bệnh tim mạch hay đột quỵ, hoặc có những rủi ro về mắc bệnh tim mạch không.
Ngoài ra, bạn có thể tham khảo và ước đoán rủi ro bệnh tim mạch và đột quỵ dựa vào công thức trên. Tuy nhiên, hãy nhớ trao đổi với BS để có quyết định cuối cùng. Đồng thời nên bỏ thói quen hút t.huốc l.á và điều trị chữa bệnh tiểu đường nhằm hạn chế tối đa các yếu tố gây hại cho sức khỏe.